Sáng nay, báo chí đồng loạt đưa tin về Khối Cảnh sát cơ động Kỵ Binh đang thu hút sự chú ý của người dân. Nhiều cư dân mạng đã đăng tải những hình ảnh thú vị về khối CSCĐ Kỵ binh này. Thế nhưng, có nhiều điều chắc bạn chưa rõ về khối CSCĐ Kỵ binh này.
Đoàn cảnh sát cơ động kỵ binh lần đầu tiên ra mắt tại Việt Nam. Ảnh: Zing, Tuổi Trẻ
1. Đoàn Cảnh sát cơ động Kỵ binh là đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Bộ Công an, được thành lập nhằm hoàn thiện tổ chức lực lượng cảnh sát cơ động đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với quá trình xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2. Đoàn CSCĐ Kỵ binh trong tương lai sẽ phục vụ vào các hoạt động diễu binh diễu hành, tuần tra kiểm soát, thực hiện nhiệm vụ giải tán đám đông, truy bắt tội phạm mà các phương tiện khác không thể đi tới được, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu vực miền núi, đòi hỏi việc băng rừng, đi công tác nhiều ngày...
3. Đội ngũ lãnh đạo nhiều đồng chí xuất phát từ Trung tâm Huấn luyện, sử dụng chó nghiệp vụ (Bộ Tư lệnh CSCĐ), có niềm đam mê cháy bỏng đối với động vật nghiệp vụ, yêu thương động vật.
4. Đoàn CSCĐ Kỵ binh hiện đang toạ lạc bên trong khuôn viên Trung tâm Phát triển chăn nuôi miền núi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đóng tại xã Bình Sơn, TP Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
5. Hiện tại trung tâm huấn luyện có hơn 100 con ngựa, từ 2-4 tuổi. Trong số đó có 70 con được đưa vào huấn luyện, số còn lại là ngựa giống để sinh sản. Theo một chiến sỹ CSCĐ, muốn thuần hoá một chú ngựa hoang, sau khi quăng dây bắt được phải mất khoảng một tuần đến 10 ngày, có những con bướng bỉnh có thể đến nửa tháng.
Đối với ngựa cũng như với chó, cần phải kiên trì huấn luyện để thành thục, tạo ra những phản xạ có điều kiện. Nếu so sánh với chó thì nghề huấn luyện ngựa vất vả hơn nhiều. Ngựa ăn đến 5 bữa, mỗi con nặng từ 300-400kg, trong khi lượng thức ăn hằng ngày chiếm 10% trọng lượng cơ thể nên chất thải cũng rất lớn.
Lúc đầu đã có những đồng chí bị ngựa hất tung, ngã xuống đất, hay bị ngựa chống đối, khuỵu xuống đè lên người... khiến đồng chí nào cũng sợ nhưng vượt qua những e ngại đầu tiên, một số chiến sĩ dũng cảm đã không ngại khó khăn, xung phong leo lên lưng ngựa.
Trong quá khứ, Việt Nam từng sử dụng ngựa trong biên chế của lực lượng biên phòng.
6. Các cán bộ huấn luyện, thuần dưỡng ngựa đều là chiến sỹ nghĩa vụ, họ có sự đam mê, tự nguyện và được xét tuyển nghiêm ngặt.
Lịch làm việc, sinh hoạt của CBCS kín mít suốt từ sáng đến tối, và luôn gắn liền với ngựa. Bắt đầu từ 5h sáng, họ đã thức dậy cho ngựa ăn, sau đó thể dục buổi sáng và dọn vệ sinh chuồng trại. Công việc huấn luyện diễn ra từ 8h đến 10h30 thì nghỉ, cho ngựa ăn. Sau giờ ăn cơm và nghỉ trưa của cán bộ thì từ 14h đến 16h, ngựa tiếp tục được huấn luyện, kết thúc sẽ là tắm rửa và ăn bữa chiều. Sau đó cán bộ chơi thể thao, vệ sinh cá nhân và ăn tối, đến 20h lại cho ngựa ăn đêm rồi mới được nghỉ ngơi. Có thể nói người và ngựa luôn gắn liền với nhau, cùng ăn ngủ nghỉ và huấn luyện cùng nhau nên với các chiến sĩ thì những chú ngựa này như những người bạn, “đồng nghiệp” của mình.
7. Giống ngựa trang bị cho đoàn Kỵ binh là ngựa Mông Cổ, kích thước không quá to, chiều cao vừa phải, lông mượt. So với loại ngựa to lớn của châu Âu, ngựa Mông Cổ nhỏ hơn, ăn ít hơn nên khi hành quân xa sẽ phải chuẩn bị lương thực ít hơn. Ngoài ra ngựa Mông Cổ còn chạy nhanh hơn, cơ động cao hơn khi "ôm cua" được ở tốc độ lớn. Do chiều cao thấp nên trọng tâm của người cưỡi cũng thấp, cưỡi trên ngựa của Mông Cổ sẽ dễ giữ thăng bằng hơn khi ngồi trên lưng ngựa châu Âu. việc lực lượng Cảnh sát Cơ động sử dụng giống ngựa Mông Cổ là hợp lý, thích hợp với thể trạng người châu Á, khí hậu của Việt Nam và có khả năng cơ động tốt ở nhiều địa hình khó khăn. Ở Châu Âu, có những giống ngựa có sức khỏe và lực chiến rất hoàn hảo để dùng làm chiến mã trong chiến trường, tuy nhiên khi tham gia vào trong các trận chiến, chúng lại rất dễ bị hoảng sợ khi nhìn thấy đao kiếm, súng lửa hay đám đông, và đó cũng có lẽ là lý do mà những kỵ binh phương Tây thường đeo giáp và bịt mặt để hạn chế tầm nhìn của ngựa.
Ngựa Mông Cổ là giống ngựa bản địa của Mông Cổ, đây là nòi ngựa chiến nổi tiếng sinh ra trên các vùng thảo nguyên Mông Cổ và sa mạc Gobi thời đế quốc Nguyên Mông thế kỷ VII-XIII. Giống ngựa này hầu như không hề thay đổi kể từ thời kỳ Thành Cát Tư Hãn.
Ngựa Mông Cổ có tầm vóc cỡ trung bình, thậm chí là có tầm thấp, chúng chỉ cao khoảng 1,4m, toàn thân có màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm. Chúng có thân hình cân đối, ngực nở, bụng thon, chân to, bốn chân chắc khỏe, lông dày, cổ nở, dáng không đẹp bằng ngựa Ả Rập nhưng rất khoẻ, sức bền bỉ, lại ăn ít. Giống ngựa này có tốc độ chạy khá nhanh từ 30–45 km/h, tốc độ đối đa 40 km/h đặc biệt, giống ngựa này rất dai sức, có thể phi nước kiệu trong 10 giờ liền nên từ xưa ngựa Mông Cổ đã được mệnh danh là thiên lý mã.Đặc biệt khi phi nước đại, chúng luôn nhoài đầu về phía trước cho nên người cưỡi ngựa rất thuận lợi cho việc sử dụng cung tên mà không lo vướng víu.
Đa phần những giống ngựa ở Mông Cổ đều rất dẻo dai và nổi tiếng trên toàn thế giới. Ngựa Mông Cổ lại dễ nuôi, chỉ ăn cỏ cũng sống được. Ở Mông Cổ, Chúng được rèn luyện ở những điều kiện thời tiết khắc nghiệt những con ngựa sống ngoài trời quanh năm ở 30°C vào mùa hè xuống đến -40°C vào mùa đông. Đó là những lý do cho việc sử dụng giống ngựa Mông Cổ lừng danh trang bị cho Trung đoàn Cảnh sát cơ động Kị binh, với những đặc điểm thích hợp cùng việc thuần dưỡng với chi phí thấp. Phần lớn số ngựa vẫn đang được thuần dưỡng ở Thái Nguyên với sự huấn luyện của chuyên gia Mông Cổ.
8. Cùng với việc thành lập Trung đoàn Kỵ binh thì CSCĐ cũng sẽ có Trung đoàn Không quân, giúp việc tuần tra, trấn áp tội phạm của Lực lượng CSCĐ bao quát hơn.